Văn hoá Việt Nam - Văn hoá đa sắc tộc

Thứ hai, 21 Tháng 6 2010 10:17
In
Không có ngoại lệ, các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, từ cổ đại cho đến ngày nay đều là những quốc gia đa dân tộc, đồng thời một dân tộc có thể sống trên nhiều quốc gia.

Điều này dẫn tới hai mối quan hệ: Một là, trong quá trình tích hợp văn hóa tộc người thành một cấu trúc dân tộc trong mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc chủ thể và dân tộc ít người, giữa các dân tộc với nhau là một quốc sách vô cùng quan trọng có thể nói là hàng đầu của Việt Nam. Hai là, dù có phân chia thành biên giới quốc gia, trong khi phải đảm bảo chủ quyền nhưng vẫn không thể ngăn cản mối quan hệ đồng tộc của họ bên nước bạn. Xây dựng tình đoàn kết dân tộc trong một quốc gia đồng thời cần quan tâm đến xu thế hoà hợp hội nhập dân tộc trong khu vực và quốc tế. Điều đó có nguyên nhân sâu xa trong lịch sử khu vực Đông Nam Á. Tại đây đã diễn ra những quá trình hội tụ - phát tán dẫn đến những phức thể văn hóa mới chung cho toàn vùng. Bước hội tụ sau cao hơn bước hội tụ trước đồng thời cũng để lại nhiều sắc tộc, nhiều dấu ấn địa phương khác nhau. Do đó, đặc trưng của văn hóa Đông Nam Á là “thống nhất trong đa dạng”(1) và quá trình hội tụ bắt nguồn từ những trung tâm khác nhau nên nó không mang tính đơn tuyến trong sự biệt lập, mà là đa tuyến trong sự tiếp xúc đan xen nhiều chiều, tạo nên những đường đồng quy, những cơ chế văn hóa tộc người đa thành phần.

Vietnam-46Việt Nam có thể nói là một Đông Nam Á thu nhỏ. Nói một cách khái quát văn hóa Việt Nam là một phức thể gồm 3 yếu tố: văn hóa núi, văn hóa đồng bằng và văn hóa miền biển, trong đó yếu tố đồng bằng tuy có sau nhưng đóng vai trò chủ đạo. Việt NamNam Đảo, Tày Thái, Tạng Miến. Điều khác biệt cho phép chúng ta nhận diện văn hóa Việt Nam chủ yếu là do bức tranh cấu tạo tộc người với nền văn hóa của họ và quá trình tích hợp văn hóa để hình thành nên văn hóa quốc gia dân tộc mang tên là Việt Nam. Quả thật, chỉ có ở Việt Nam trong khung cảnh Đông Nam Á mới có một bức tranh đa dạng, đa sắc, đa hương, đa vị như vậy, với những gam mầu đậm nhạt khác nhau: nơi giầu chất núi, nơi thấm đượm chất biển, nơi mỡ màng chất đồng bằng. Nói cách khác, cũng là mầu xanh nhưng có xanh núi rừng, xanh màu lúa, xanh nước biển. Hơn thế nữa ở đây không chỉ có “đa” mà còn có “ẩn” trong ký ức của thời gian. Thời gian đã dệt nên những bức màn lịch sử với bao sự biến động thăng trầm. cũng là nơi hội tụ đủ các bộ tộc thuộc tất cả các dòng ngôn ngữ Đông Nam Á: Nam Á,

Ở Việt Nam, người Tày – Thái là cư dân rất giỏi làm lúa nước và đã thể hiện thành công mô hình kinh tế - xã hội lúa nước vùng thung lũng hẹp chân núi, sau này được nhân rộng ra nhiều vùng ở Đông Nam Á. Trên bản đồ dân tộc học người ta chia thành 2 nhóm Tày – Thái theo đường phân thuỷ của Sông Hồng: bên hữu ngạn là cư dân Thái bao gồm cả người Lự, Lào, Thái ở Thanh Hoá, Nghệ An, bên tả ngạn là cư dân Tày – Nùng và các bộ tộc Giáy, Bố y, Tu Dí, Thuỷ, Tống... Có ba dân tộc lớn: Thái (trên 60 vạn) phân bố khắp vùng Tây Bắc, Tày (80 vạn), Nùng (55 vạn) ở vùng Việt Bắc. Cùng với các cư dân Môn Khmer và Hán Tạng, họ đã tạo dựng nên quê hương của một miền núi non hùng vĩ, từ vịnh Bắc Bộ lên tận Mường Tè nơi tiếng gà gáy cả 3 nước nghe (Lào – Trung Quốc - Việt Nam) với những vựa lúa nổi tiếng: Than Uyên, Nghĩa Lộ, Mường Thanh... Họ còn giữ được một kho tàng văn hóa truyền thống, kể cả văn bản bằng các chữ Thái, chữ Nôm, Tày, Nùng và một dòng ngôn ngữ khá thống nhất. Người Tày – Thái đã có một đóng góp cực kỳ quan trọng vào nền văn hóa Việt Nam. Đó là văn hóa lúa nước. Chính người Việt đã áp dụng mô hình này vào vùng Châu thổ Bắc Bộ và sau này nhân rộng ra cả nước.

Trong khi đó các nhóm Môn Khmer đại diện cho văn hóa núi, sống rải rác trên vùng cao làm nương rẫy, ngôn ngữ bị vỡ vụn ra thành từng mảnh. Nhưng đó chính là những cư dân bản địa cổ nhất, còn bảo lưu được những yếu tố tiền cốc loại và những người chủ thực sự của Cao Nguyên. Các học giả Pháp gọi họ là Tiền Đông Dương (protoindo-chinois). Họ quen thuộc với môi trường rừng núi và cũng sợ cái hoang vu đầy bí ẩn, đầy nguy hiểm đó. Do đó họ thích đốt lửa, ưa tiếng nhạc trầm hùng (kiểu cồng chiêng) theo nhịp 2/4, quen chiếm lĩnh chiều cao với nghệ thuật hoành tráng, ưa màu nguyên sặc sỡ tương phản với tự nhiên nhằm khắc họa hình dáng con người, ưa những điệu múa sôi động căng tròn trên từng thớ thịt đường gân theo tiếng nhạc giầu âm hưởng như thôi thúc con người.

Trong nhóm Môn Khmer có người Khmer Nam Bộ, là di duệ của chủ nhân nền văn hóa Đồng Nai (bệ đỡ của nhà nước Phù Nam, sau văn hóa Sông Hồng với nhà nước Âu Lạc và văn hóa Sa Huỳnh với nhà nước Lâm Ấp, Chămpa). Sự hiện hữu của người Khmer đã mang đến cho vùng đất mới Nam Bộ một sắc thái núi ngay trên đồng bằng rộng lớn, một đức tin phật giáo tiểu thừa Theravada với những nghi thức Balamôn giáo, những chùa chiền, những lễ hội... và gắn bó với người đồng tộc của họ ở Vương quốc Angkor vĩ đại.

Người Chàm hiện nay tập trung ở Thuận Hải và An Giang. Thuận hải là khu vực cư trú lâu đời của họ; ở đây một bộ phận theo Balamôn giáo (60%), số còn lại theo đạo Bàni (hồi giáo cổ) và một số ít theo đạo Islam (hồi giáo mới) sống bằng nghề nông. Trái lại, người Chăm ở An Giang theo đạo Islam, sống dọc sông Hậu, làm nghề dệt vải, đánh cá, buôn bán ngược xuôi. Người Chàm cùng với các dân tộc Êđê, Jarai, Raglai, Churu tạo thành nhóm ngôn ngữ Nam đảo trên lục địa. Văn hóa Chàm đậm chất biển. Họ quen với môi trường biển, ưa phóng tầm mắt ra biển cả, ưa màu trắng của cát biển và khi chết họ có tục làm tang lễ trên bãi cát, khi cưới có tục ăn cá một ngày, thờ tổ tiên theo dòng biển (Atâu Tathich) bên cạnh dòng núi (Atâu Chơk). Họ là dân tộc chủ thể của Nhà nước Champa - một Nhà nước hùng mạnh ở Đông Nam Á với mô hình gồm 3 thành tố: Thủ đô hành chính (Trà Kiệu), Thánh địa (Mỹ Sơn) và cảng thị (chiêm cảng). Chính người Chàm đã có đóng góp to lớn vào phức thể văn hóa Việt Nam - yếu tố văn hóa biển, làm cho nền văn hóa Việt Nam hội đủ ba yếu tố: núi, đồng bằng và biển.

Về mặt xã hội, người Chàm đã để lại chế độ mẫu hệ. Người phụ nữ là bà chủ: hỏi chồng rồi cưới chồng, con theo họ mẹ và thuộc gia đình vợ. Người chồng là họ ngoại, khi chết nhà vợ trả anh ta về với tổ tiên của mẹ. Họ thờ “thần mẹ xứ Sở” Pô Inư Nagar.

Người Chàm ngoài những di tích văn hóa vật thể nguy nga đẹp vào loại nhất nhì Đông Nam Á, họ cũng đã để lại dấu ấn tạo nên sắc thái địa phương khá rõ nét của người Việt ở phía Nam, từ ngôn ngữ, văn hoá, phong tục tập quán. Cùng với người Khmer, người Hoa, người Chàm đã góp phần làm nên sự đa dạng văn hóa của người Việt ở miền Nam.

Trong bức tranh đa sắc tộc của Việt Nam, ở phía Bắc có một số bộ tộc nói ngôn ngữ Hán - Tạng, phần lớn là cư dân Tạng Miến và Mèo Dao. Họ là những người chuyển tải văn hóa từ Bắc xuống Nam, mang lại cho văn hóa Việt Nam một chút hương vị phương Bắc, nối Cao nguyên Vân Quý với Châu thổ Sông Hồng và biển Đông. Đó là những dân tộc Lô Lô, Hà Nhì, Sila, Cống, Phù Lá, Xá Phó... Họ sống rải rác trên vùng núi cao.

Nhóm H’mông – Dao là một nhóm hỗn hợp mà ngôn ngữ của họ có cơ tầng Môn Khmer và cơ chế Tạng Miến. Người Dao vào Việt Nam sớm hơn người H’mông, sống du canh du cư, làm rẫy, ở nhà đất, nửa đất nửa sàn hay nhà sàn, thờ Bàn vương, khi chết vẫn được đưa hồn về Dương Châu, Trung Quốc. Người H’mông từ phương Bắc xuống Sapa rồi vào Lai Châu ở lại khu vực Điện Biên Phủ, sang Lào và vào Nghệ An. Họ là người đưa được ruộng nước lên núi cao, đưa được cái cày sắt lên vùng đất đá tai mèo làm nương thâm canh, rất giỏi chăn nuôi, giỏi nghề rèn sắt, có nghề trồng thuốc chữa bệnh, biết trồng thuốc phiện - một cây trồng có giá trị kinh tế cao mà ngày nay họ đang phải bỏ đi. Họ sống theo thiết chế dòng họ, khát khao có người tù trưởng của mình và một vùng đất quê hương để xây dựng cuộc sống. Người H’mông rất thiện chiến, rất dũng cảm nhưng cũng rất manh động dễ bị lợi dụng...

Rất nhiều dân tộc ít người sống xen kẽ với nhau, thậm chí có những nhóm nhỏ bị tách biệt, có nguy cơ bị mất tiếng mẹ đẻ, nhưng họ lại bảo lưu những ngôn ngữ và văn hóa rất xưa và có giá trị lịch sử. Ví như người Laha, Pupéo, Cơlao, Lachí mà Paul Pénédict đặt tên là nhóm Kadai và dùng làm cầu nối để dựng lại dòng ngôn ngữ Nam – Thái (Austro – Thái) bên cạnh dòng Nam Á (Austroasiatic). Đó là trường hợp các ngôn ngữ Mày, Rục, Sách, Arem, Mã liệng, Poọng... mà tác giả bài viết này (PĐD) dùng làm cứ liệu để dựng lại ngôn ngữ Tiền Việt Mường cách ngày nay hơn 3000 năm2.

Chỉ với từng ấy thôi chúng ta đã thấy được bức tranh đa sắc tộc của Việt Nam với những nét đặc sắc, phong phú, đa dạng và những mối quan hệ cội nguồn, quan hệ tiếp xúc đan xen chằng chịt trong diễn trình lịch sử để có được một cộng đồng các dân tộc Việt Nam gắn bó, chung lưng đấu cật xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thống nhất với những truyền thống vẻ vang như ngày nay.

Trước đây, do cách nghiên cứu tách biệt, nên chúng ta đã mô tả văn hóa các dân tộc ít người một cách rời rạc, không có mối liên hệ, nhất là với người Kinh – dân tộc chủ thể đã có vai trò lớn trong lịch sử văn hóa dân tộc, cho nên không phát hiện ra quá trình tích hợp văn hóa Việt Nam. Chúng ta nói người Tày – Thái giỏi lúa nước nhưng không biết họ đóng góp vào văn hóa lúa nước Việt Nam như thế nào; nói người Chàm giỏi biển, nhưng không nói họ đã có đóng góp cách nhìn và ứng xử với biển của người Việt ra sao... Nếu ngày nay chúng ta nói văn hóa Việt Nam là một phức thể gồm có yếu tố núi, đồng bằng và biển, thì đó là nói tới sự đóng góp của các dân tộc mà người Kinh - một cư dân đồng bằng đã tích hợp được để cùng với các dân tộc khác dệt nên bức tranh đa dạng của văn hóa Việt Nam ngày nay./.

GS.TS Phạm Đức Dương
Chủ tịch hội nghiên cứu Khoa học Đông Nam Á Việt Nam

Ngay-nay

(Còn tiếp)

Chú thích:

(1) Nói theo câu châm ngôn của Mpu Tantular nhà thơ cung đình của vương triều Môjôphít thế kỷ 14 – 15: “bhinneka tunggal ika”. Câu châm ngôn trên ngày nay được ghi trên quốc huy nước Cộng hoà Inđônêxia.

(2) Ngày nay nhiều dân tộc đang có nguy cơ mất tiếng mẹ đẻ. Theo thống kê của các nhà ngôn ngữ, cho đến nay trên thế giới đã có 30.000 NN chết. Theo ước tính của họ, muốn tồn tại một thứ tiếng phải có 100.000 người sử dụng. Nhưng trong 6.000 NN hiện có thì ½ chỉ có chưa đầy 10.000 người sử dụng và ¼ chỉ có dưới 1.000 người. Vì vậy, mỗi năm trên thế giới có tới 10 NN tiêu vong cùng với nền văn hóa của họ. Tính đa dạng văn hóa đang bị xói mòn nghiêm trọng.