Home

Đào Văn Tiến - Người thầy đáng kính

Email In PDF.
ha-dinh-duc-1GS. Đào Văn Tiến sinh năm 1920 tại thành phố Nam Định trong một gia đình nho học trọng lễ nghĩa. Cụ thân sinh ra ông rất thương yêu con, nhưng cũng rất nghiêm khắc với con. Nền nếp gia phong đã rèn luyện ông ngay từ tấm bé tạo nên đức tính chuyên cần, nghiêm túc trong học tập và cả cuộc đời lao động khoa học sau này của ông.
Năm 1942, khi còn là sinh viên ngồi ở ghế nhà trường đại học, ông đã bắt đầu tham gia nghiên cứu khoa học dưới sự hướng dẫn của GS. Boris Noyer, người phụ trách phòng thí nghiệm Sinh học và Y học, trường Đại học Đông Dương cùng đồng nghiệp Việt Nam là ông Đặng Vũ Kha. Đó là công trình nghiên cứu về máu loài ba ba và sử dụng tim của nó trong sinh lý học, công bố trên tạp chí khoa học của trường Đại học Đông dương năm 1943. Năm 1944 ông tốt nghiệp Cao học về Động vật học ở trường này và ở lại làm phụ giáo.

Năm 1945 ông cho xuất bản cuốn "Danh từ khoa học - Vocabulaire Scientifique - Vạn vật học (Sinh, Sinh lý, Động vật, Thực vật, Địa chất...)" Nhà xuất bản Minh Tân Paris XIV. Cuốn sách đã được Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đề lời tựa:

.. Tác giả là ông Đào Văn Tiến, một bạn trong đám thanh niên tốt nghiệp đầu tiên ở Đại học Hà Nội về môn Vạn vật học.

... Phép đặt danh từ, ông đã giảng rõ trong lời tựa riêng. Những danh từ đặt ra đây có thể thông dụng được.

... Trong lúc gấp, cần dạy và phổ thông các môn khoa học bằng tiếng ta, tập Danh từ khoa học này, góp với tập trước, sẽ giải quyết tạm được vấn đề danh từ về các khoa học đại cương"

Các công việc thiết thực, làm trong bóng tối của các bạn thanh niên như các bạn Tiến, Chiển, Căn, Quán, Quảng, Thiền đều xứng đáng với một phần nhiệm vụ của thanh niên phải đoàn kết mà kiến thiết nước Việt Nam độc lập.                          

Năm 1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Theo tiếng gọi của Tổ quốc ông lên chiến khu Việt Bắc. Khoác áo lính phục vụ trong Cục Quân y, ông cùng với GS. Từ Giấy biên tập tờ báo Vui Sống. Năm 1949 ông tham gia giảng dạy ở trường Quân Y sĩ do bác sỹ Đinh Văn Thắng làm hiệu trưởng, sau đó là bác sĩ Nguyễn Trinh Cơ. Đến năm 1951 ông giảng dạy ở trường Khoa học Cơ bản và Sư phạm cao cấp ở Tuyên Quang. Về sau trường chuyển sang Khu học xá Nam Ninh Trung Quốc đào tạo nhiều cán bộ khoa học và giáo viên. Ông cùng GS. Lê Khả Kế giảng dạy các môn sinh vật học. Về toán học có các GS.Lê Văn Thiêm; Nguyễn Xiển; Nguyễn Cảnh Toàn. Về vật lý các GS.Ngụy Như Kontum; Nguyễn Tiến Liễu; Dương Trọng Bái. Giảng dạy về hoá học có GS.Lê Thạc Cát; Hoàng Ngọc Cang. Những người tốt nghiệp ở khu học xá này về toả đi khắp mọi miền đất nước công tác, trong số đó nhiều người đã trở thành các nhà khoa học, nhà giáo dục nổi tiếng đóng góp rất lớn cho khoa học và nền giáo dục Việt Nam.

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hoà bình lập lại, miền Bắc được giải phóng. Trường Đại học Sư phạm & Khoa học được thành lập tại Hà Nội. Ông trở về giảng dạy tại khoa Khoa học tự nhiên cùng với các ông Lê Khả Kế, Nguyễn Đình Ngỗi, Dương Hữu Thời, Trương Cam Bảo đảm nhận các môn sinh vật học mà hồi đó gọi là vạn vật học. Ông và các đồng nghiệp tiếp thu các phòng thí nghiệm trống rỗng bỏ lại sau khi thực dân Pháp rút khỏi Hà Nội. Tuy thiếu thốn đủ bề, công việc bận rộn, nhưng với tấm lòng hăng hái của lớp thanh niên khi nước nhà mới độc lập, họ ra sức củng cố lại phòng thí nghiệm và trực tiếp giảng dạy lớp học sinh từ kháng chiến trở về và những học sinh học trong thành ở lại. Năm 1956 trường Đại học Sư phạm Khoa học chia thành 2 trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Đại học Tổng hơp Hà Nội, ông tiếp tục giảng dạy, nghiên cứu khoa học và trở thành Chủ nhiệm khoa Sinh học.

Trong suốt thời gian công tác ông luôn luôn là nhà sư phạm mẫu mực, nhà khoa học cần cù, trung thực và nghiêm túc. Ông luôn luôn tâm đắc câu nói của GS. Hồ Đắc Di: "Ở đại học không chỉ dạy nghề mà còn phải dạy người". Dạy nghề tức là truyền đạt lại kiến thức khoa học là điều đã khó. Dạy người là dạy về nhân cách con người, đặc biệt đối với người khoa học là đức tính cần cù, say mê, lòng trung thực lại càng khó hơn. Có làm được điều đó mới thực sự làm tròn trách nhiệm của ông thày dạy đại học. Trong suốt cuộc đời ông đã thực hiện được điều tâm đắc đó và truyền lại cho các thế hệ học trò.

Năm 1994 ông viết bài" Sinh học và đạo lý", trong đó có đoạn: Tuyển chọn gen đặc biệt của người nào đó. Lấy trứng ở vòi Fallope của một phụ nữ rồi thay nhân bằng nhân tế bào của một người đàn ông nào đó, rồi lại đặt trứng đó vào dạ con phụ nữ để nó phát triển bình thường. Bằng cách này có thể sao bao nhiêu bản tuỳ ý của người đàn ông nhất định. Kiểu thí nghiệm này đã thành công ở ếch nhái. Muốn thành công ở thú chỉ cần thời gian. Quả nhiên đúng với dự báo đó, hai năm sau, 1996 con cừu Dolly ra đời.

Ông đã tỏ ra lo ngại: Các thử nghiệm về kỹ thuật gen nêu trên đã đặt vấn đề cho xã hội: Ai xác định được đặc tính ưng ý cho nhiều người? Ai hình dung được tài năng vài chục năm tới đây vẫn giống như ngày nay? Dân số tăng nhanh một cách nguy hiểm, ai dám khuyến khích sao nhiều bản của một người nào đó giả thiết người đó là siêu phàm, ai hình dung được xã hội toàn người siêu phàm hoạt động như thế nào? tổ chức ra sao?

... Kỹ thuật sinh học muốn xáo động vốn gen, loại bỏ gen này thêm gen khác. Tính đa hình của gen bị ảnh hưởng. Hậu quả như thế nào chưa ai rõ. Cơ chế tác dụng của các gen với nhau cũng chưa được sáng tỏ. Giải thưởng Noben G. Wald đã nói một câu không phải không suy nghĩ: "Tốt nhất đừng có đụng tới bộ máy gen của con người".

Qua bài này cho thấy ông đã cập nhật với khoa học hiện đại và tiên đoán những thành quả mới về sinh sản vô tính ở động vật và con người. Đồng thời cũng tỏ ra lo lắng về đạo lý nếu tiến hành nhân bản con người.

Ông là tấm gương sáng cho các thế hệ học trò mà sau này đã trở thành những nhà giáo, nhà khoa học lớn nổi tiếng không chỉ trong nước mà còn trên thế giới như: GS.Võ Quý - nhà hoạt động Môi trường, ông đã nhận nhiều giải thưởng Quốc tế, GS.Mai Đình Yên - Nhà giáo nhà nghiên cứu cá hàng đầu Việt Nam, GS.Đặng Huỳnh - chuyên gia nghiên cứu thú của Việt Nam được giới khoa học nể trọng.

GS. Đào Văn Tiến mất ngày 3 tháng 5 năm 1995 thọ 75 tuổi. Công lao đóng góp to lớn của ông đã được xã hội ghi nhận. Nhà nước đã phong tặng ông nhiều phần thưởng cao quý: bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 1977; Nhà nước phong Giáo sư năm 1980; Huân chương Lao động hạng 3 năm 1983; Nhà Giáo Nhân Dân năm 1989. Một vinh dự to lớn đối với ông là Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I tháng 9 năm 1996. Ông thật sự xứng đáng là người thầy mẫu mực./.

Ngay-nay

PGS. TS Hà Đình Đức - Trường ĐH Khoa học Tự nhiên Hà Nội